[Book & Reading] – Đọc Sách Cùng Con – The Velveteen Rabbit or How Toys Become Real – Chuyện về Chú Thỏ Nhung hay Đồ Chơi Thành Đồ Thật Như Thế Nào

Truyện này mình mua sách cũ cho con, vô tình thấy. Mình nhớ không lầm hình như mua ở Hội chợ Sách Cũ hay sao đó. Lúc chọn mua là vì thấy nó cổ điển hay hay, tranh vẽ nhìn dễ chịu hợp gout mình.

Đến khi mở ra đọc lần đầu năm 2015-2016 gì đó thì thấy hay hay thích thích. Sau này 2023 đọc lại, thì thấy trời ơi thích mê. Mình thích cách tác giả mô tả về chú Thỏ Nhung, tính cách của chú, sự phát triển về nhân cách của chú; thích cách các tuyến nhân vật đồ chơi được xây dựng rất biểu trưng, ví dụ như đồ chơi máy thì kênh kiệu, ỷ mình hiện đại tân thời, hoặc vài món đồ chơi truyền thống nhưng cũng se sua bắt quàng làm họ; thích cách tác giả miêu tả khái niệm “being Real”; thích các tầng nghĩa trong từng câu chữ,… Thích hết, thích hết hahaha.

Cho nên mình dịch ra tiếng Việt. Mình đã từng thử 1 lần năm 2016, nhưng không thành công, chắc do mình chưa “cảm” được. Lần này thì “cảm” được rồi đó, mà không biết có thành công không. Mình có kể chuyện này cho bạn lớn nhà mình, thì bạn thích lắm, thậm chí có bữa đi học về còn nói “Hôm nay mấy bạn hỏi con sao con không viết chữ nắm tay, thì con nói ‘mình không thích’, giống bạn thỏ nhung á mẹ!” Mô Phật, ảnh lớp Ba rồi mà mơ màng như trẻ mầm non vậy á. Bạn nhỏ 5 tuổi thì chưa phù hợp để nghe nên mình chưa kể. Mình nghĩ mấy bạn chừng lớp 1-2 chắc sẽ thích nghe truyện này đó.

Mình dịch xong có nhờ bạn Hồng yêu quý của mình proofread. Tụi mình đã có những trao đổi thú vị quanh các từ “nursery, nana, nursery magic,…” Có lúc bí quá còn định dịch “Bảo Mẫu Tiên Cô” mới ghê hahaha.

Mời bạn đọc nha. Nếu hứng thú, có thể chia sẻ hoặc dùng nó, nhưng nhớ credit tên mình nha.


CHUYỆN VỀ CHÚ THỎ NHUNG hay ĐỒ CHƠI TRỞ THÀNH ĐỒ THẬT NHƯ THẾ NÀO

 

Xưa kia có một chú thỏ bằng nhung, và thoạt đầu thì chú nhìn thật lộng lẫy. Chú mập mạp và bông phồng, theo cách một chú thỏ nên như vậy. Chú có bộ lông lốm đốm nâu và trắng, những chiếc ria mép bằng chỉ thật, và đôi tai lót bằng vải xa-tanh. Vào sáng sớm ngày Giáng Sinh, hình ảnh chú ngồi nêm chặt trên miệng vớ của Cậu Bé nhìn thật là duyên dáng.

 

Vẫn còn các thứ khác bên trong vớ như hạt và những trái cam, cùng với một món đồ chơi chạy bằng động cơ, sô-cô-la hạnh nhân và một chú chuột vặn dây cót. Vậy nhưng Chú Thỏ mới là món tuyệt vời nhất. Trong ít nhứt là hai giờ đồng hồ, Cậu Bé yêu chiều chú; và sau đó khi các cô dì và chú bác đến ăn tối, khi vang lên những tiếng sột soạt của giấy ăn và tiếng giấy gói quà được mở, và khi nỗi phấn khích trào dâng trước những món quà mới mẻ, Cậu Bé đã quên mất Chú Thỏ Nhung.

 

Trong một thời gian dài, Chú Thỏ sống ở tủ đồ chơi hoặc trên sàn phòng chơi; và không ai để tâm đến chú. Chú vốn bản tính nhút nhát, lại chỉ được làm bằng nhung, nên thường bị các món đồ chơi mắc tiền khác hắt hủi. Những món đồ chơi bằng máy thì trịch thượng, và xem thường tất cả; chúng chứa đầy những ý tưởng hiện đại, và tự cho rằng mình là đồ thật. Thuyền Máy, người đã sống qua hai mùa Giáng Sinh và đã tróc gần như hết sơn trên người, cũng góp giọng với chúng, và không bao giờ bỏ lỡ cơ hội kể về những sợi dây thừng cột buồm của mình bằng các từ chuyên ngành về kỹ thuật. Chú Thỏ không thể tự nhận mình thuộc về loại nào hết, bởi vì chú đâu biết được trên đời này có thỏ thật; chú tưởng rằng tất cả loài thỏ đều được nhồi mạt cưa như mình, và chú cũng hiểu rằng mạt cưa thì khá lỗi thời rồi nên không bao giờ được đề cập đến nó trong các nhóm đồ chơi hiện đại. Thậm chí ngay cả Timothy, chú sư tử gỗ gắn khớp nối được làm bởi một người lính bị tàn phế, vốn dĩ nên có góc nhìn rộng hơn, cũng kênh kiệu tỏ vẻ quen biết với Chính Phủ. Việc sống giữa tất cả bọn họ làm cho Chú Thỏ tội nghiệp cảm thấy mình trở nên thật vô nghĩa và tầm thường; và chỉ duy nhất Ông Ngựa Da là người đối xử tốt với chú.

 

Ông Ngựa Da sống ở phòng chơi lâu hơn bất cứ món đồ nào khác. Ông già đến mức bộ lông nâu đã tróc từng mảng, để lộ đường chỉ may bên dưới; và hầu hết lông đuôi đã bị nhổ để xỏ hạt làm dây đeo cổ. Ông là người thông thái, bởi Ông đã chứng kiến hàng dài những món đồ chơi máy nối nhau đến, khoe khoang vênh váo, rồi nhanh chóng gãy lò xo chính và qua đời. Và Ông biết rằng chúng chỉ có thể là đồ chơi thôi, không bao giờ trở thành thứ gì khác được. Bởi lẽ, phép màu phòng chơi là một thứ lạ lùng tuyệt diệu mà chỉ những món đồ chơi nào già dặn, thông thái và đầy kinh nghiệm như Ông Ngựa Da mới hiểu nổi mà thôi.

 

Thật nghĩa là sao hả ông?” Chú Thỏ hỏi Ông Ngựa vào một ngày nọ, khi cả hai nằm cạnh nhau gần tấm chắn lò sưởi, trước khi Bà vú vào dọn dẹp phòng chơi của Cậu Bé. “Nó có phải là mình có mấy thứ kêu vo ve trong người và có tay cầm chìa ra không?”

 

Thật không phải là cách con được tạo ra,” Ông Ngựa Da đáp. “Đó là điều xảy đến với con. Khi một đứa trẻ thương con trong một thời gian dài, thật dài, không phải chỉ để chơi cùng, mà là THỰC LÒNG yêu thương con, thì khi đó con sẽ trở nên thật.”

“Nó có đau không Ông?”, Chú Thỏ hỏi.

“Đôi khi có,” Ông Ngựa Da trả lời, bởi vì ông lúc nào cũng thành thật. “Khi con là thật, con sẽ không màng đến chuyện bị đau đâu.”

“Nó có xảy ra liền lập tức không Ông, như kiểu mình được lên dây cót, hay từng chút một thôi?”, chú hỏi.

“Nó không xảy ra ngay lập tức,” Ông Ngựa Da đáp. “Con trở nên như vậy. Cần một thời gian dài cho việc đó. Do vậy nên nó thường không xảy ra với những ai mong manh dễ vỡ, hoặc sắc sảo quá mức, hay cần được ấp ủ cẩn thận. Thông thường, đến lúc con là Thật rồi, thì lông của con đã được cưng nựng đến rụng gần hết, và mắt con thì rơi ra, con sẽ trở nên lỏng lẻo và xơ xác. Nhưng tất thảy những điều đó đều không quan trọng, vì khi con là Thật rồi, con không thể nào xấu xí cả, trừ phi người ta không hiểu được điều đó mà thôi.”

“Vậy ông là Thật rồi đúng không?” Chú Thỏ hỏi, rồi tự cảm thấy đáng ra mình không nên hỏi điều đó, vì chú nghĩ Ông Ngựa Da chắc là người nhạy cảm. Nhưng Ông chỉ mỉm cười.

“Chú của Cậu Bé đã khiến ông trở nên Thật” Ông nói. “Chuyện đó lâu lắm rồi, nhưng một khi con đã trở nên Thật rồi, con không thể đảo ngược lại được nữa. Nó sẽ mãi mãi là như vậy.”

Chú Thỏ thở dài. Chú nghĩ rằng phải lâu lắm thì phép màu gọi là Thật này mới xảy đến với mình. Chú mong mỏi được trở thành Thật, để biết được nó như thế nào, nhưng việc trở nên xơ xác và rớt mắt, lạc râu khiến chú hơi buồn. Chú ước rằng điều đó có thể xảy ra mà chú không cần phải trải qua mấy thứ bất tiện đó.


Bà Vú là người cai quản phòng chơi. Có lúc bà không thèm quan tâm đến mớ đồ chơi nằm lăn lóc khắp phòng, có lúc bà lại sà xuống sàn và gom hết tất cả bỏ vào tủ, nhanh như một cơn gió, và chẳng cần lý do gì cả. Bà gọi đó là “dọn dẹp”, và tụi đồ chơi, nhất là mấy món bằng thiếc, rất ghét điều đó. Chú Thỏ lại không thấy phiền gì, vì dù bị quăng vào bất cứ nơi đâu, chú đều đáp xuống một cách nhẹ nhàng.

Một tối nọ, khi sắp đi ngủ, Cậu Bé không tìm thấy chú chó bằng sứ mà mình hay ngủ cùng. Bà thì đang vội, mà truy tìm chó bằng sứ trước giờ đi ngủ thì quả là rắc rối, nên bà chỉ nhìn một vòng quanh phòng, và khi thấy cửa tủ đồ chơi đang mở, bà quơ vội một thứ.

“Đây,” bà nói, “ôm chú thỏ cũ của con đi! Chú ngủ với con cũng được!” và bà nắm lấy một tai Chú Thỏ, đặt vào vòng tay của Cậu Bé.

Tối hôm đó, và nhiều buổi tối sau đó nữa, Chú Thỏ Nhung ngủ trên giường của Cậu Bé. Ban đầu, chú thấy không thoải mái lắm, vì Cậu Bé ôm chú quá chặt, đôi khi lại còn lăn đè lên chú, hoặc đẩy chú sâu dưới gối làm chú hầu như không thở được. Chú cũng cảm thấy nhớ những đêm sáng trăng nơi phòng ngủ, khi mà cả ngôi nhà chìm trong thinh lặng, và nhớ những cuộc chuyện trò với Ông Ngựa Da. Nhưng chẳng bao lâu thì chú trở nên thích nơi ở mới, vì Cậu Bé hay tâm sự với chú, và làm cho chú những đường hầm đẹp đẽ phía dưới khăn trải giường. Cậu Bé nói nó nhìn giống mấy cái hang thỏ thật ở ngoài đời. Họ cùng nhau chơi nhiều trò hay tuyệt vời, nhưng chỉ thủ thỉ thôi, khi Bà đã thắp đèn ngủ ở bệ lò sưởi và rời đi để dùng bữa khuya. Và khi Cậu Bé say giấc, Chú Thỏ sẽ rúc mình vào sát dưới chiếc cằm nhỏ của cậu và mơ màng, trong vòng tay ôm siết thật chặt của cậu.

Thời gian cứ như vậy trôi đi, và Chú Thỏ cảm thấy rất đỗi hạnh phúc, đến nỗi chú không hề để ý rằng lớp lông nhung mềm của mình ngày càng xơ xác, đuôi bị sút chỉ, và chiếc mũi nơi Cậu Bé đặt thật nhiều nụ hôn lên đó đã mất đi màu hồng vốn có.

Mùa xuân đến, họ dành nhiều thời gian ở trong vườn, vì hễ Cậu Bé đi đâu thì Chú Thỏ sẽ ở đó. Cậu Bé chở chú trên xe cút kít, bày những buổi dã ngoại trên bãi cỏ, và xây cho chú nhiều túp lều tiên đáng yêu bên dưới những cây mâm xôi nằm phía sau hàng rào bằng hoa. Và một lần nọ, khi đang chơi thì Cậu Bé bất ngờ bị gọi đi ăn bữa chiều, bỏ lại Chú Thỏ trên bãi cỏ đến tận tối. Bà phải thắp nến đi tìm chú, vì Cậu Bé nhất định không chịu đi ngủ khi không có chú bên mình. Chú ướt đẫm sương và vương đầy đất do chui sâu vào mấy cái hang thỏ mà Cậu Bé đào cho chú trong bồn hoa. Bà vừa càu nhàu vừa chùi chú vào góc của chiếc tạp dề. “Con cứ phải đòi con Thỏ cũ rích này cho bằng được!” bà nói. “Cứ thích làm ầm lên chỉ vì một món đồ chơi!”

Cậu bé ngồi dậy và giơ tay ra. “Thỏ của con, đưa cho con!” Cậu Bé nói. “Bà không được nói vậy. Bạn không phải là đồ chơi. Bạn là thỏ THẬT!”

Chú Thỏ cảm thấy hạnh phúc khi nghe điều đó, vì cuối cùng chú cũng biết rằng lời Ông Ngựa Da nói là sự thực. Phép màu phòng chơi đã xảy đến với chú, và chú không còn là đồ chơi nữa. Chú là Thật. Chính Cậu Bé đã nói như vậy mà.

Đêm đó, Chú Thỏ vui đến mức không ngủ được, và tình yêu thương khuấy động khắp con tim bằng mùn cưa của chú, làm cho nó như muốn nổ tung ra. Từ trong đôi mắt nhựa tròn như chiếc nút áo của chú, đôi mắt vốn đã từ lâu mất đi độ bóng đẹp của nó, xuất hiện một cái nhìn của sự thông thái và xinh đẹp. Ngay cả Bà, vào sáng hôm sau khi cầm chú lên, cũng phải nói: “Ta nói con Thỏ cũ rích này nhìn ra vẻ rất hiểu biết nha!”

Đó là một mùa hè tuyệt vời! Gần nhà của họ có một khu rừng, và vào những buổi tối sáng trời của tháng Sáu, sau bữa ăn chiều, Cậu Bé hay thích chơi đùa ở đó. Cậu đem theo Chú Thỏ Nhung bên mình, và trước khi đi dạo xung quanh để hái hoa, hoặc đóng vai thổ phỉ và chạy chơi giữa mấy cái cây, cậu luôn luôn xây cho Chú Thỏ một cái tổ nhỏ nhắn đâu đó trong bụi dương xỉ, để chú được ấm áp dễ chịu. Tất cả bởi vì cậu là một chàng trai nhỏ tử tế, và cậu muốn Chú Thỏ luôn thoải mái. Một buổi tối nọ, khi Chú Thỏ đang nằm một mình ở đó, quan sát đàn kiến chạy đi chạy lại trên cỏ giữa hai cái chân bằng nhung của mình, chú thấy hai sinh vật kỳ lạ bò ra khỏi bụi dương xỉ cao ngay gần bên.

Chúng cũng là thỏ như chú, nhưng nhìn lông lá và mới cáu. Có lẽ chúng được may rất tinh tế, vì chú không nhìn thấy đường may ở đâu cả, và khi di chuyển, tư thế của chúng thay đổi một cách kỳ lạ; mới phút trước chúng còn dài và ốm, thì phút tiếp theo đã mập và phồng lên, thay vì luôn luôn giữ một dáng như chú. Chân của chúng đi lại nhẹ nhàng trên mặt đất, và chúng bò đến khá gần bên chú, giật giật cái mũi; trong khi đó chú nhìn chằm chằm vào chúng để tìm xem bộ bánh răng và lò xo chìa ra từ phía nào, bởi chú biết rằng mấy món đồ chơi nhảy được thường sẽ cần thứ gì đó để lên dây cót cho chúng. Nhưng chú không thấy thứ gì hết. Rõ ràng chúng hoàn toàn là một loại thỏ đồ chơi mới.

Chúng dán mắt vào Chú Thỏ, và chú cũng nhìn chúng không chớp mắt. Trong suốt khoảng thời gian đó, mũi chúng không ngừng giật giật.

“Sao bạn không dậy chơi với tụi mình?” một đứa hỏi.

“Mình không muốn.” Chú Thỏ trả lời, vì chú không muốn giải thích rằng chú không có máy móc gì bên trong mình để giúp ngồi dậy cả.

“Ồ!” con thỏ lông lá nói. “Nó dễ như gì á.” Rồi nó nhảy một cú xa sang bên cạnh, đứng trên hai chân sau.

“Mình nghĩ bạn hông làm được thôi!” nó nói.

“Được chứ!” Chú Thỏ trả lời. “Mình có thể nhảy cao hơn bất cứ thứ gì luôn!” Ý chú là khi Cậu Bé thảy chú, nhưng tất nhiên chú không nói rõ ra như vậy.

“Vậy bạn nhảy trên hai chân sau được không?” con thỏ lông lá hỏi.

Đó là một câu hỏi khủng khiếp, vì Chú Thỏ Nhung có cái chân sau nào đâu! Thân sau của chú được may thành một mảnh, như cái gối cắm kim vậy. Chú ngồi bất động giữa bụi dương xỉ, lòng mong rằng lũ thỏ không để ý thấy điều đó.

“Mình không muốn làm!” chú lại nói.

Nhưng lũ thỏ có cặp mắt rất tinh tường. Một đứa vươn cổ ra và nhìn.

“Nó không có chân sau!” nó la lên. “Ô, một con thỏ không có chân sau!” Và nó bắt đầu cười to.

“Có chứ!”, Chú Thỏ nhỏ la lên. “Mình có chân sau! Mình đang ngồi lên nó nè!”

“Vậy giơ ra cho tụi mình coi đi, như vầy nè!”, con thỏ rừng nói. Rồi nó bắt đầu xoay vòng tròn và nhảy múa, đến khi Chú Thỏ nhỏ thấy hơi chóng mặt.

“Mình không thích nhảy múa,” chú nói. “Mình thích ngồi yên một chỗ thôi.”

Nhưng lúc đó chú ao ước được nhảy múa khiêu vũ, vì một cảm giác mới mẻ nhột nhạt là lạ chạy dọc khắp cơ thể chú. Chú cảm thấy rằng mình có thể đổi tất thảy mọi thứ trên đời để được nhảy nhót khắp nơi như lũ thỏ.

Con thỏ lạ mặt ngừng nhảy, và tiến đến sát bên Chú Thỏ Nhung. Nó tới gần đến nỗi mấy cái ria dài của nó chạm vào tai của chú, rồi bất thình lình nó nhăn mũi, cụp tai và nhảy lui lại.

“Ê nó có mùi kỳ lắm!” nó kêu lên. “Nó hông phải thỏ đâu! Nó hông phải thỏ thiệt!”

“Mình là Thật mà!” Chú Thỏ nhỏ nói. “Mình là Thật! Chính Cậu Bé đã nói như vậy!” Chú gần như muốn khóc.

Ngay lúc đó có tiếng chân vang lên, và Cậu Bé chạy ngang qua ngay chỗ bọn chúng. Hai con thỏ lạ biến mất lập tức sau một tiếng dậm chân, cái đuôi trắng của chúng vụt qua mắt.

“Quay lại chơi với mình đi!” Chú Thỏ nhỏ gọi với theo. “Ôi làm ơn quay lại đi mà! Mình biết mình là Thật mà!”

Nhưng không có tiếng đáp lại, chỉ có đàn kiến vẫn chạy ngược chạy xuôi, và mấy cây dương xỉ đong đưa nhẹ nhàng chỗ hai kẻ lạ vừa sượt qua. Chú Thỏ Nhung chỉ còn lại một mình.

“Ôi trời ơi!” chú nghĩ. “Sao tụi nó lại chạy như vậy? Sao không dừng lại nói chuyện với mình?”

Chú nằm đó trong một thời gian thật lâu, ngắm nhìn mấy cây dương xỉ, lòng mong rằng tụi thỏ kia sẽ quay lại. Nhưng bọn chúng không trở lại, và hiện giờ thì mặt trời đã chìm xuống thấp hơn và mấy con bướm đêm màu trắng đã chấp chới bay ra, rồi Cậu Bé tới và ôm chú về nhà.


Nhiều tuần trôi qua, Chú Thỏ Nhung đã trở nên rất cũ và xơ xác, nhưng Cậu Bé vẫn yêu thương chú như xưa. Cậu ôm ấp thương quý chú nhiều đến mức ria mép chú rụng hết, lớp vải lót tai từ màu hồng đã chuyển thành xám, và các chấm nâu trên người mờ hết. Thậm chí chú còn mất luôn phom dáng, hầu như ai nhìn chú cũng không thấy giống như một chú thỏ nữa, trừ Cậu Bé. Đối với cậu, chú luôn luôn xinh đẹp, và đó cũng là tất cả những gì Chú Thỏ nhỏ quan tâm đến. Chú không hề để tâm đến việc mình như thế nào trong mắt kẻ khác, bởi phép màu phòng chơi đã biến chú thành Thật, và khi người ta trở nên Thật, sự tiều tuỵ không là gì cả.

Rồi một ngày nọ, Cậu Bé lâm bệnh. Mặt cậu đỏ bừng, và cậu nói mớ khi ngủ; cơ thể bé bỏng của cậu nóng đến mức nó đốt cháy Chú Thỏ khi cậu ôm chú sát vào lòng. Nhiều người lạ mặt đến rồi đi khỏi phòng ngủ, và đèn được thắp suốt đêm. Từ đầu đến cuối, Chú Thỏ Nhung nằm ẩn mình dưới mớ khăn trải giường, không dám cục cựa, vì chú sợ rằng nếu một ai đó tìm thấy chú, họ sẽ đem chú đi, và chú biết rằng Cậu Bé cần có chú.

Đó là một thời gian dài và mệt mỏi, vì Cậu Bé bệnh quá nặng không thể chơi đùa gì, và Chú Thỏ nhỏ cảm thấy khá chán nản khi không có gì để làm suốt cả ngày dài. Nhưng chú kiên nhẫn nằm rúc mình, trong lòng mong mỏi đến lúc Cậu Bé khoẻ mạnh trở lại, và họ có thể ra ngoài vườn dạo chơi giữa những đoá hoa và bươm bướm, cùng nhau chơi thật nhiều trò tuyệt vời trong bụi cây mâm xôi như những ngày trước. Chú hoạch định bao nhiêu điều thú vị, và khi Cậu Bé đang nằm mơ màng, chú bò lại gần bên gối cậu và thì thầm những điều đó vào tai cậu. Rồi Cậu Bé hạ sốt và có thể ngồi dậy trên giường để xem sách tranh, với Chú Thỏ nhỏ cuộn mình nằm sát bên cạnh. Và vào một ngày, người ta để cậu ra khỏi giường và thay quần áo.

 Đó là một buổi sáng đầy nắng chói, và các cửa sổ trong phòng được mở rộng. Họ bế Cậu Bé ra ngoài ban công, quấn cậu trong một chiếc khăn san, và Chú Thỏ nhỏ thì nằm kẹt giữa mớ ga giường, trầm tư suy ngẫm.

Ngày mai Cậu Bé sẽ đi chơi ở bờ biển. Mọi thứ đều đã được sắp xếp hết cả, và bây giờ chỉ còn một việc là làm theo chỉ dẫn của bác sĩ. Họ đã nói về tất cả những điều đó, khi Chú Thỏ nhỏ nằm dưới lớp khăn trải giường, và chỉ ló mỗi đầu ra để lắng nghe. Căn phòng cần được khử trùng, tất cả các cuốn sách và đồ chơi mà Cậu Bé dùng khi trên giường đều phải bị đốt bỏ.

“Hoan hô!” Chú Thỏ nhỏ nghĩ trong đầu. “Ngày mai mình sẽ được ra biển chơi!” Do rằng Cậu Bé vẫn thường hay nói về bờ biển, cậu rất muốn được thấy những ngọn sóng vỗ vào bờ, cùng những chú cua nhỏ xíu, và những lâu đài cát.

Vào lúc đó, Bà nhìn thấy chú.

“Vậy còn con Thỏ bông cũ này thì sao?” bà hỏi.

đó hả?” ông bác sĩ đáp. “Sao hả, nó là một đống vi trùng sốt ban đỏ đó! – Đốt nó ngay đi. Cái gì? Nhảm nhí! Mua cho thằng bé một con thỏ mới. Nó không được chơi với con này nữa!”

Vậy là Chú Thỏ nhỏ bị bỏ vào một cái túi cùng với những cuốn sách truyện và nhiều những thứ rác khác. Người ta đem chúng ra tận cuối khu vườn, phía sau chuồng gà. Đó là một nơi tốt để đốt lửa, nhưng người làm vườn còn đang bận bịu nên chưa có thời gian để làm việc đó. Ông còn phải đào khoai tây và hái đậu cô ve, nên ông hứa sẽ đến sớm vào sáng mai và đốt hết chỗ rác.

Tối đó, Cậu Bé ngủ ở một phòng khác, với một chú thỏ mới. Đó là một chú thỏ đẹp lộng lẫy với bộ lông trắng muốt và một đôi mắt bằng thuỷ tinh thật. Nhưng Cậu Bé cũng không màng đến chú thỏ mới, cậu còn đang quá phấn khích vì ngày mai được đi ra biển, và việc đó tuyệt vời đến mức cậu không hề suy nghĩ đến thứ gì khác.

Trong khi Cậu Bé say ngủ và mơ về bờ biển, Chú Thỏ nhỏ nằm giữa đống sách tranh cũ trong góc vườn phía sau chuồng gà, lòng cảm thấy rất đỗi cô đơn. Cái túi đựng chú không bị buộc lại, nên khi ngọ nguậy chút đỉnh, chú có thể chui đầu ra khỏi miệng túi và nhìn ra ngoài. Chú hơi rùng mình một chút, do đã quen với việc ngủ trên giường, và bộ lông nay đã sờn mỏng, lộ chỉ do được ôm ấp nhiều không thể giúp bảo vệ chú được nữa. Chú có thể nhìn thấy bụi cây mâm xôi ở gần đó, chúng mọc cao và sát vào nhau như một khu rừng nhiệt đới; dưới bóng cây ấy chú đã cùng Cậu Bé chơi đùa vào những buổi sáng xa xưa. Chú nhớ về những giờ phút ngập nắng trong khu vườn – về việc mình đã hạnh phúc đến nhường nào – rồi một nỗi buồn to lớn bao trùm lấy chú. Chú dường như thấy tất thảy vụt qua trước mắt, mỗi mỗi đẹp hơn, những túp lều tiên trong bồn hoa, những buổi chiều yên ả trong khu rừng khi chú nằm trong bụi dương xỉ với lũ kiến bò ngang qua chân; những ngày tháng tuyệt diệu khi chú bắt đầu biết rằng mình là Thật. Chú nhớ về Ông Ngựa Da thông thái và hoà nhã, về tất cả những gì ông đã kể chú nghe. Được yêu thương, phải từ bỏ sự xinh đẹp, được trở nên Thật, rồi để làm gì nếu phải kết thúc như thế này? Và một giọt nước mắt, một giọt nước mắt thật sự, nhỏ xuống chiếc mũi nhung nhỏ nhắn xác xơ của chú, và rơi xuống mặt đất.

Sau đó một điều kỳ lạ xảy ra. Nơi giọt nước mắt rơi xuống, một đóa hoa mọc lên khỏi mặt đất, một đoá hoa thần bí, không giống như bất cứ loài nào mọc trong khu vườn. Nó có những chiếc lá xanh mảnh khảnh màu ngọc bích, và ngay trung tâm của những chiếc lá là một đoá hoa nhìn như một chiếc cốc bằng vàng. Nó đẹp đến mức làm cho Chú Thỏ nhỏ quên cả khóc, mà chỉ nằm đó và ngắm nhìn. Ngay lúc ấy, đoá hoa bung nở và một nàng tiên bước ra khỏi đó. Nàng là nàng tiên đẹp nhất trên cõi đời. Váy nàng làm bằng ngọc trai và những hạt sương mai, và xung quanh cổ và trên tóc nàng nở đầy những hoa, và gương mặt nàng chính là đoá hoa hoàn hảo nhất. Nàng tiến đến gần bên Chú Thỏ nhỏ, nâng chú lên trong vòng tay và đặt một nụ hôn lên chiếc mũi nhung thấm ướt nước mắt.

“Thỏ con,” nàng nói, “Con không biết Ta là ai ư?”

Chú Thỏ ngước lên nhìn nàng, và dường như chú đã từng nhìn thấy gương mặt nàng trước đây, nhưng chú không nhớ được là ở đâu.

“Ta là Nàng Tiên ban phép màu phòng chơi” nàng nói. “Ta chăm sóc cho tất cả các món đồ chơi mà trẻ con yêu quý. Khi chúng đã cũ và hao mòn, và lũ trẻ không còn cần đến chúng nữa, Ta sẽ đến đem chúng đi cùng và biến chúng thành Thật.”

“Nhưng không phải con đã là Thật rồi sao?” Chú Thỏ nhỏ hỏi.

“Con là Thật đối với Cậu Bé.” Nàng Tiên đáp, “bởi vì cậu bé thương con. Còn bây giờ con sẽ là Thật đối với tất cả mọi người.”

Rồi nàng ôm Chú Thỏ vào lòng và bay cùng chú vào trong khu rừng.

Trời sáng, vì mặt trăng đã mọc lên. Cả khu rừng trông thật đẹp, những nhành lá dương xỉ chiếu sáng như được mạ bạc. Nơi trảng rừng giữa những thân cây, mấy chú thỏ hoang đang nhảy múa với cái bóng của mình trên thảm cỏ mượt như nhung. Khi vừa nhìn thấy Nàng Tiên, chúng ngừng lại và đứng thành vòng tròn, nhìn nàng không chớp mắt.

“Ta đem đến cho các con một người bạn mới để chơi cùng đây”, Nàng Tiên nói. “Các con phải thật tử tế với bạn, dạy cho bạn tất cả những gì bạn cần biết để sống ở Xứ sở Thỏ, bởi vì bạn sẽ đến sống cùng các con, mãi mãi về sau.”

Và nàng hôn Chú Thỏ nhỏ một lần nữa, rồi đặt chú lên mặt cỏ.

“Hãy chạy chơi đi nào, Thỏ con!” nàng nói.

Nhưng Chú Thỏ nhỏ chỉ ngồi bất động trong một lúc, không hề cục cựa. Bởi lẽ khi nhìn thấy lũ thỏ rừng nhảy nhót xung quanh, chú chợt nhớ đến đôi chân sau của mình. Chú không muốn chúng thấy chú chỉ gồm một mảnh. Chú không biết rằng khi Nàng Tiên hôn chú lần sau cùng, nàng đã thay đổi chú hoàn toàn. Và có thể chú sẽ ngồi như vậy trong một thời gian rất lâu, mắc cỡ đến mức không dám cục cựa, nếu như ngay lúc đó không có một thứ gì đó mơn trớn chiếc mũi chú, và trước khi kịp nghĩ xem mình đang làm gì, chú đã đưa một ngón chân sau lên để gãi mũi.

Và chú nhận ra rằng mình thật sự có chân sau! Thay vào lớp lông bằng vải nhung cáu bẩn, chú có bộ lông màu nâu, mềm mại và sáng bóng; đôi tai chú tự ve vẩy được, và những chiếc ria mép của chú dài đến nỗi chúng quệt vào cỏ. Chú nhảy một cái, và niềm vui sướng khi được sử dụng đôi chân sau to lớn đến nỗi chú nhảy bật vòng quanh bãi cỏ trên đôi chân ấy. Chú nhảy qua hai bên, rồi xoay tròn như các bạn, và chú hào hứng đến mức khi dừng lại để tìm Nàng Tiên thì nàng đã biến mất tự lúc nào.

Cuối cùng thì chú cũng trở thành một chú thỏ thật sự, và được ở cùng nhà với các bạn của mình.


Mùa Thu rồi mùa Đông trôi qua. Xuân đến, thời tiết trở nên ấm áp và ngập nắng, Cậu Bé vào khu rừng đằng sau nhà để chạy chơi. Khi đang chơi, hai chú thỏ bò ra từ bụi cây dương xỉ và liếc nhìn cậu. Một chú thuần một màu nâu, trong khi chú còn lại có mấy vết kỳ lạ nằm dưới lớp lông, tựa như lâu lắm rồi chú đã từng có các đốm nhỏ, và những đốm ấy vẫn ẩn hiện qua lớp lông kia. Chiếc mũi mềm nhỏ nhắn và đôi mắt đen tròn của chú toát lên một điều gì đó thân quen lắm, đến mức Cậu Bé tự nhủ:

“Kìa, nhìn nó giống hệt con Thỏ Bông cũ mà mình bị lạc mất hồi mình bị sốt ban đỏ!”

Nhưng cậu không hề biết rằng đó thực sự là chú Thỏ Bông của cậu, quay trở về để gặp lại đứa trẻ đã lần đầu tiên giúp chú trở nên Thật.


Mong là bạn cũng thích câu chuyện này nhiều như mình vậy.

Chan

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *